Bác dạy chúng tôi cất cao tiếng hát
… Chiều 18-5-1969, chúng tôi đang học tập tài liệu Đạo đức cách mạngdo Bác Hồ viết để thiết thực kỷ niệm lần thứ 79 Ngày sinh của Bác thì được lệnh vào gặp Bác. Tin đến đột ngột quá, chúng tôi ai cũng bàng hoàng. Được biết sẽ gặp Bác, được biểu diễn văn nghệ để Bác xem và mừng thọ Bác 79 tuổi, chúng tôi sung sướng quá, vinh dự quá. Vì quá phấn khởi, khi vào nhà Bác, mới trông thấy Bác, chúng tôi chạy ùa tới như đàn cháu nhỏ lâu ngày được gặp ông:
- Chúng cháu chào Bác ạ! Nhân Ngày sinh của Bác, chúng cháu xin kính chúc Bác mạnh khoẻ sống lâu!
Bác đặt cuốn sách dày và chiếc kính lão xuống bàn, cười rất hiền hậu, giọng Bác ấm áp: Chào các cháu!
Được Bác cho phép, chúng tôi ngồi xuống ghế. Bác hỏi tên tuổi, quê quán, trình độ văn hoá, ngày nhập ngũ... từng người một trong đoàn. Bác chỉ chị Mai Tư: Còn cháu?
Nghe Mai Tư báo cáo tên tuổi, quê quán… biết Mai Tư quê ở Đô Lương, Bác cười: A, trai Cát Ngạn, gái Đô Lương...
Bác hỏi chuyện tới đâu, chúng tôi lễ phép trả lời tới đó. Chúng tôi rưng rưng cảm động. Bác bận việc nước việc dân mà vẫn dành thì giờ chăm sóc chúng tôi. Tôi thay mặt chị em thưa với Bác: Chúng cháu xin phép được hát để Bác nghe một số bài theo điệu dân ca miền Trung ạ.
Bác vui vẻ gật đầu, chăm chú nghe từng người hát. Khi nghe tôi hát ví đò đưa:“Ai biết nước sông Lam răng là trong, là đục, thì biết cuộc đời răng là nhục, là vinh...”.
Bác cười: Ở Nghệ An, người ta gọi là“nác”chứ không phải là“nước”.
Bác bảo chú Kỳ gọi các đồng chí làm việc gần đó cùng đến nghe.
Chúng tôi tiếp tục hát. Chị Nồng hát điệu “Ru con”, chị Lý hò khoan, sau mỗi câu hò có đệm. Tôi và Mai Tư không biết cách hò nên ngồi im. Bác bảo: Các cháu không hò khoan theo à?
Đến lượt Mai Tư hát dặm đò đưa:“Nước sông Lam biết khi mô cho cạn, cũng như tinh thần cách mạng của dân. Dù cho bão nổi mưa sa, Nghệ An Xôviết xứng là Nghệ An”.
Bác hỏi mấy đồng chí ngồi xung quanh: Có hay không các chú?
- Thưa Bác hay ạ!
- Mai Tư hát tiếp một câu ví ngắn:
“Vững tay lái chiếc ca nô
Đưa phà đến bến chuyến mô cũng an toàn.
Đã trăm lần bom đạn
Vẫn vững chí kiên gan...”.
Mai Tư hát nhanh, dồn dập. Bác quay sang hỏi chú Kỳ: Chú có hiểu không?
Chú Kỳ người Bắc nghe không hết được. Bác lại hỏi Mai Tư: Trong ta chừ có dệt vải nữa không? - Dạ thưa Bác, có ạ!
- Có phường vải không?
- Dạ, không làm phường như trước, bà con đã vào hợp tác xã làm ăn tập thể cả.
- Rứa cháu có biết hát phường vải không? - Dạ thưa Bác, có ạ.
Bác bảo Mai Tư hát một câu mà các cụ ngày xưa thường hay hát.
Mai Tư thưa với Bác: Dạ, cháu biết hát phường vải nhưng không biết lời cũ ạ.
Bác bảo: Thì cháu lấy câu ni để hát nhá:“Khuyên ai chớ lấy học trò...”,cháu tiếp đi!
- Dạ, thưa Bác, có phải “dài lưng tốn vải ăn no lại nằm”không ạ!
- Giờ cháu tiếp tục câu thứ hai đi!
Mai Tư lúng túng không biết. Bác nhắc:
“Lưng dài có võng đòn cong
Áo dài đã có lụa hồng vua ban”.
Mai Tư hát câu Bác vừa nhắc theo điệu ví Nghệ An nhưng nhớ sai đòn cong thànhvòng tôm.
Bác cười: Đòn cong chớ!
Mai Tư hát xong thì Tuấn Mỹ “lẩy Kiều” được Bác khen. Mỹ hát thêm mấy câu thơ của chú Tố Hữu theo điệu ví ngắn:
“Mình về với Bác đường xuôi,
Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người...”.
Đến lượt tôi, tôi đứng dậy thưa: Thưa Bác, bây giờ cháu xin hát điệu ru em, dân ca miền Trung theo lời cũ ạ. Tôi cất giọng:
“À ờ ơ... Ru em em ngủ cho muồi”
Bác sửa lại:
“Ru tam tam théc cho muồi...”
(“tam” là tiếng miền Trung dùng để chỉ “em”; “théc” là “ngủ”).
Tôi hát lại:“Ru tam tam théc cho muồi
Để mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu...”
Bác lại sửa: Để mạ chứ không phải đểmẹ
Tôi sung sướng hát tiếp:
“... Để mạ đi chợ mua vôi ăn trầu
Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu
Mua cau chợ Sải, mua trầu chợ Dinh”.
Bác cười, ân cần sửa nối: Mua cauCam Phổchứ không phảichợ Sải.
Chao ôi! Bác nhiều tuổi rồi, Bác đã từng đi khắp năm châu bốn biển, Bác biết nhiều thứ tiếng, am hiểu nhiều phong tục tập quán các nơi, thế mà Bác vẫn nhớ rất lâu từng tên đất, tên người, cả tiếng hát quê nhà. Tôi lại hát dân ca miền Nam theo điệu Ru con cho Bác nghe nữa. Tôi chọn bài thơRu concủa chú Tố Hữu:
“Con ong làm mật yêu hoa
Con cá bơi yêu nước, con chim ca yêu trời...”.
Bác ngồi nghe say sưa, dáng tư lự. Tôi thầm đoán: “Chắc Bác đang nghĩ về miền Nam đó”.
Trời tối rồi. Sao đêm tháng năm mọc chi chít. Tiếng hát chúng tôi vẫn ngân vang. Nhưng đội chiếu bóng đã chuẩn bị xong, Bác cho phép chúng tôi ra xem chiếu bóng với Bác. Trước khi kết thúc, Bác hỏi chúng tôi: Các cháu có đi phục vụ chiến trường không?
- Dạ, thưa Bác, chúng cháu có đi Cồn Cỏ và một số chiến trường xa ạ!
Nghe chúng tôi báo cáo, Bác rất vui. Sau đó, Bác nói: Bây giờ Bác thưởng cho mỗi cháu ba chiếc kẹo.
Bác tự tay chọn phát cho mỗi chúng tôi ba chiếc kẹo. Số kẹo còn lại, Bác trao cả cho Tuấn Mỹ: Cháu ni nhỏ nhất, Bác cho cả đĩa!
Chúng tôi còn được xem chiếu bóng với Bác hơn một giờ nữa. Nhưng khi ra về, mọi người vẫn cảm thấy sao thời gian trôi qua nhanh quá, cứ bồi hồi lưu luyến mãi, không muốn rời Bác. Trên đường về, chúng tôi nói với nhau: “Hôm nay chúng mình được vào gặp Bác để hát cho Bác nghe, nhưng chính Bác lại dạy chúng mình hát”. Chúng tôi nguyện sẽ mãi mãi mang lời ca tiếng hát mà Bác đã dạy chúng tôi đi khắp các chiến trường, các đơn vị để phục vụ cán bộ và chiến sĩ góp phần đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược...
Trích theo sáchBác Hồ với văn nghệ sĩ, Nxb.Văn học, Hà Nội, 1995
Bác Hồ thăm đồng ruộng Kiều Mai
Buổi sang, ngày 7-8-1955 (tức ngày 20-6 âm lịch), bà con nông dân Kiều Mai đang sôi nổi thi đua đào vét mương lấy nước sông Nhuệ dẫn vào đồng. Những lá cờ đỏ sao vàng được cắm trên gò cao cạnh Cầu Diễn bên đường 11A. Mọi người đang tấp nập làm việc, người xắn đất, người bốc đất chuyền tay nhau, mồ hôi lấm tấm trên trán, thấm qua áo nhưng ai cũng vui vẻ, khẩn trương làm việc. Trên đường quốc lộ, một chiếc xe ô tô chạy từ Sơn Tây về Hà Nội. Xe dừng bánh gần chỗ mọi người đang đào vét mương, cửa xe vừa mở Bác từ trên xe bước xuống.
- Bác… Bác Hồ!... Mọi người đều nhận ngay ra Bác. Dáng người hơi cao, vầng trán rộng, đôi mắt sáng, chòm râu dài, Bác mặc bộ quần áo kaki bạc mầu, chân đi dép cao su bước nhanh nhẹn tới chỗ mọi người. Bác đến bất ngờ quá, ai cũng muốn reo lên, tất cả đều dừng tay và nhìn về phía Bác, đồng thanh chào Bác. Ai cũng hồi hộp xúc động, cứ đứng im chăm chú nhìn Bác không nói nên lời. Bác chào mọi người rồi tiến lại gần chỗ anh Trần Văn Đăng và hỏi: Thiếu nước phải đi đào vét mương vất vả, các cô, các chú có thắc mắc gì không?Mọi người cùng trả lời: Thưa Bác, chúng cháu rất phấn khởi, không thắc mắc gì ạ! Bác khen thế là tốt. Bác hỏi anh Đăng: Trong số bà con đi đào mương ở đây có ai bị bắt buộc phải đi làm không? Thưa Bác không có ai bị bắt buộc ạ! Vì nắng hạn kéo dài mọi người đều tự thấy phải chung sức đào mương đưa nước lên đồng cày cấy cho kịp thời vụ. Bác khen nông dân Kiều Mai tích cực đào mương, Bác căn dặn mọi người phải chủ động lấy nước cầy cấy, không chờ đợi trời mưa, có thế sản xuất mới thắng lợi được. Bác kể chuyện những nơi chống hạn tốt cho mọi người, rồi Bác nói tiếp, đại ý: Đồng ruộng của ta mầu mỡ nhưng còn nhiều nơi chưa cấy được hai vụ vì ta làm thủy lợi chưa giỏi. Các cô, các chú cố gắng đào đắp nhiều mương máng hơn nữa để biến số ruộng một vụ thành hai vụ, thu hoạch được nhiều thóc, đời sống sẽ ấm no hơn. Xưa không có ruộng dân ta chịu khổ, bây giờ làm chủ ruộng đồng lẽ nào đời sống của ta lại không khấm khá hơn trước.
Lắng nghe lời nói chân tình, giản dị của Bác ai cũng xúc động, thấm thía sự quan tâm sâu sắc của Đảng, của Bác, ai cũng muốn đồng thanh thưa với Bác: Chúng cháu sẽ quyết tâm làm được những lời chỉ bảo của Bác. Thấy chân Bác dính nhiều bùn, cụ Vũ Thị Năng mang một chậu nước lên để Bác rửa chân, Bác ngăn lại và thân mật nói với cụ Năng: Tôi còn khoẻ hơn cụ, để tôi tự đi rửa lấy. Nói xong Bác đi xuống sông Nhuệ rửa sạch chân tay, mọi người theo Bác ra bờ sông, Bác bảo tất cả mọi người:
- Nếu các cô, các chú sản xuất tốt hơn nữa thì Bác lại về thăm.
Xe của Bác đã đi xa, mọi người vẫn đứng bên đường nhìn theo, lưu luyến, cảm động, ai cũng muốn được gần Bác hơn nữa để được nghe những lời chỉ bảo của Người, từng lời nói, cử chỉ của Bác rất gần gũi, thân thiết còn khắc sâu trong tâm trí mọi người.
TinBác Hồ về thăm lan nhanh khắp xóm làng, mọi người kể cho nhau nghe những lời chỉ bảo của Bác và cùng nhau bàn bạc kế hoạch đào đắp mương máng, cải tạo đồng ruộng, hăng hái lao động sản xuất. Những năm sau đó Kiều Mai đi vào sản xuất tập thể, cùng nhau chung sức, chung lòng phát triển sản xuất. Mọi người mong chờ có ngày Bác lại về thăm.
Nhớ Bác
Chị Ái Liên kể: Dạo đó là đầu năm 1955, tôi và cháu Ái Loan đang công tác ở đoàn văn công Liên khu Bốn. Tối đó, Đoàn được vào Phủ Chủ tịch diễn vở cải lươngLương Sơn Bá - Chúc Anh Đàiđể Bác và khách xem. Được vào diễn ở Phủ Chủ tịch, được gặp Bác Hồ, anh chị em trong đoàn chúng tôi vui mừng, sung sướng lắm. Lệ thường, tối biểu diễn, thì quá chiều anh chị em mới đến đoàn chuẩn bị đi diễn. Nhưng hôm đó chúng tôi sắm nắm tập trung từ sáng sớm. Ai cũng kiểm tra, ôn luyện lại phần công việc của mình mà vẫn cảm thấy còn chưa đầy đủ. Sáu giờ chiều, ô tô đến đón. Trong Phủ Chủ tịch, sân khấu đã chuẩn bị xong. Tối đó tôi đóng vai Lương Sơn Bá, còn cháu Ái Loan đóng vai Ngân Tâm, cô hầu gái giả trai của tiểu thư họ Chúc…
Buổi tối đó, Bác Hồ ngồi ở hàng ghế thứ hai, chăm chú xem biểu diễn. Ở màn đầu, sự gặp gỡ thú vị của Sơn Bá - Anh Đài làm Bác cười rất vui. Giờ nghỉ giữa buổi biểu diễn, anh chị em diễn viên khẩn trương chuẩn bị cho màn tiếp thì bất ngờ có tiếng ai reo to: “Bác Hồ!”. Tất cả đều quay nhìn ra. Bác đã đến bên mọi người trong căn lều dựng làm hậu trường trên bãi cỏ.
Nói sao hết được nỗi mừng vui khi đó. Có anh diễn viên đang hoá trang lại, cứ đứng ngẩn người ra, miếng bông vẫn cầm trên tay. Mấy cô diễn viên thì chạy xô lại vây lấy Bác. Ái Loan nhanh chân nhất. Ái Loan cứ quấn lấy Bác, giữ chặt một bên tay Bác, miệng líu ríu mà không biết nói gì. Bác cười, gỡ tay Ái Loan ra, bảo với mọi người: Bác vào thăm, động viên các cháu diễn tiếp cho thật hay nữa… Diễn hay, lát nữa hết vở Bác có kẹo, Bác cháu ta cùng liên hoan đấy…
Mọi người lại reo hò quanh Bác.
Lúc đó, tôi đang dở chút việc ngoài sân khấu. Nghe tiếng reo hò vội chạy vào. Tôi vừa xuống bậc thang vào hậu trường thì gặp Bác đi lên. Gặp Bác bất ngờ quá, tôi cứ đứng sững người, không nói được câu nào. Bác Hồ cười, Bác bỗng vòng tay, cúi mình cất tiếng chào làm tôi giật mình như chợt tỉnh: “Xin kính chào hiền đệ!”. Đó là câu chào, cử chỉ của Lương Sơn Bá khi gặp Chúc Anh Đài mà tôi diễn ở màn đầu.
Vở diễn hết, màn kéo lên, anh chị em ra chào khán giả. Bác Hồ đứng dậy vỗ tay rồi nhanh nhẹn đi lên sân khấu. Được Bác hỏi, mọi người vui sướng quá, cứ hò reo tranh nhau trả lời, Bác bỗng giơ tay, bảo: Các cô chú, các cháu diễn hay rồi… Bây giờ các cô chú, các cháu có muốn biết ý kiến của Bác về vở diễn không?
- Có ạ!
Mọi người nhất loạt trả lời. Ai nấy vội nín lặng chờ nghe ý kiến nhận xét của Bác. Bác đi lại mấy bước, rồi Bác cất tiếng đọc rõ từng câu, từng tiếng:
“Một đôi Sơn Bá - Anh Đài
Chữ tình đáng trọng, chữ tài đáng thương”.
(Bác dừng lại chỉ tay vào chị Hồng Liên là người đóng vai Chúc công, bố Chúc Anh Đài).
Làm cho đôi lứa uyên ương không thành…
Bác ngừng đọc, đi đi lại lại, rồi Bác cất cao tiếng hơn, một tay Bác nắm chặt giơ lên, nghiêm nghị nói tiếp:
Đánh cho phong kiến tan tành
Cho bao nhiêu Anh Đài - Sơn Bá sẽ được thành lứa đôi…
Những câu thơ đó chúng tôi chỉ được nghe có một lần giữa lúc tâm trạng vui sướng rộn ràng như vậy, thế mà mọi người đều nhớ ngay, thuộc ngay… Đối với riêng tôi, hơn mười lăm năm qua rồi, mà tôi tưởng như vẫn đang nhìn thấy Bác khi đó, đang nghe tiếng Bác sang sảng bên tai. Bởi vì qua mấy câu thơ đọc ngay buổi đó, Bác đã dạy chúng tôi rất nhiều về nghề nghiệp, về cách xử lý đúng nhất đối với một vở diễn. Trước đây khi dựng, khi diễn vở Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài, chúng tôi đi sâu nhiều vào hoàn cảnh éo le của đôi trai gái để gây lòng thương xót, cảm thông của người xem, qua đó tố cáo chế độ phong kiến dã man, độc ác, bóp nghẹt quyền sống của con người. Bây giờ Bác dạy chúng tôi phải nâng cao ý nghĩa đó hơn - phải hành động. Phải“Đánh cho phong kiến tan tành…!”.
Chúng tôi cùng nhau suy nghĩ, trao đổi lời Bác. Những buổi diễn sau, vẫn những lời hát, cử chỉ, điệu múa đó, nhưng chúng tôi diễn mạnh hơn, sôi sục hơn, quyết liệt hơn…, do đó, sức tố cáo và tác động đến người xem cũng sâu sắc, mãnh liệt hơn…
Từ ngày hòa bình lập lại (1954), chị Ái Liên và các cháu Ái Xuân, Ái Vân nhiều lần được vinh dự vào biểu diễn để Bác xem, vào thăm Bác… nhớ lại thấy Bác Hồ vẫn không khác gì hình ảnh “anh Ba” như trong câu chuyện người dượng kể với gia đình…
Lược trích theo sáchNgười là Hồ Chí Minh, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội, 1995
Quê hương năm tấn đón Bác
Nhận được tin quê hương năm tấn chuẩn bị đón Bác về thăm, ai nấy phấn khởi khác thường. Anh Đông và tôi được đi đón Bác, lòng tôi lại càng rộn ràng, phần vì vinh dự, phần lo trách nhiệm.
Tối hôm đó, dưới ánh đèn dầu, chúng tôi ngồi quây quần nghe Bác kể chuyện. Sau đó, các đồng chí thường vụ báo cáo với Bác về tình hình địa phương. Bác hỏi tỉ mỉ về sản xuất, đời sống, việc học hành... Bác hỏi tôi:
- Thế cô phụ trách công việc gì?
- Thưa Bác, cháu phụ trách công tác tài chính, thương nghiệp ạ.
- Cô có lo thiếu hàng phân phối cho dân không?
- Thưa Bác, cháu cũng thấy khó lắm ạ.
- Đừng sợ không có hàng, cốt sao phân phối công bằng, hợp lý, hàng ít mà phân phối tốt sẽ bảo đảm đoàn kết tốt.
Bác hỏi tiếp:
- Ở đây, có bao nhiêu phụ nữ tham gia công việc chính quyền?
Tôi không nhớ rõ con số, đành báo cáo chung chung:
- Thưa Bác có nhiều, hầu hết các xã đều có, có một số chị làm chủ tịch, và nhiều chị làm phó chủ tịch.
Bác lại hỏi:
- Ở đây còn tệ đánh vợ, có đúng không?
Tôi đang phân vân thì anh Đông đã thưa:
- Thưa Bác, vẫn còn ạ!
Đến đây, Bác nói, giọng nghiêm nghị hẳn:
- Đánh vợ là tệ rất xấu, chúng ta làm cách mạng để tranh lấy bình quyền, bình đẳng, gái trai ngang quyền với nhau. Lênin đã nói "Phụ nữ là một nửa xã hội. Nếu phụ nữ chưa được giải phóng thì xã hội chưa được giải phóng". Bản thân phụ nữ phải tự mình phấn đấu để giữ gìn quyền bình đẳng với đàn ông. Đàn ông phải quý trọng phụ nữ. Có người còn đánh chửi vợ, đó là một điều đáng xấu hổ. Như thế còn gì là tình nghĩa vợ chồng. Như thế là phạm pháp, là dã man. Việc này Hiến pháp đã quy định. Đảng phải nghiêm khắc.
Tôi nghe Bác nói xúc động quá và thấy mình còn có nhiều thiếu sót.
Hôm sau, chúng tôi mời Bác tới đình Phương Cáp, xã Hiệp Hòa, là nơi cán bộ đang tập trung đón Bác. Bác bắt đầu nói chuyện với mọi người, đại ý:
Hiện nay, nhiệm vụ quan trọng nhất của toàn Đảng và toàn dân ta là sản xuất giỏi, chiến đấu giỏi để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Các chiến sĩ ở mặt trận phải có đủ vũ khí, phải nắm vững chiến thuật để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Trên mặt trận sản xuất, cán bộ và xã viên phải nắm vững kỹ thuật canh tác để thâm canh.
Muốn làm tốt những công việc sản xuất thì phải tổ chức và phân bố sức lao động cho tốt. Sau này, kháng chiến thắng lợi, chúng ta sẽ có nhiều máy móc để thay thế sức người và sức trâu bò. Nhưng bây giờ chúng ta còn cần nhiều sức trâu, bò. "Con trâu là đầu cơ nghiệp". Cần chăm sóc trâu, bò, không được để trâu, bò đói rét. Muốn sử dụng tốt sức người vào công việc sản xuất, thì cần ra sức cải tiến công cụ. Một người gánh khỏe chỉ gánh được 40 cân, nhưng một người kéo một cái xe thì có thể chở được hơn một tạ, tức là gấp mấy lần gánh.
Sức người có nhiều loại: Có thanh niên, có phụ nữ, có người trẻ, có người già. Phải phân công cho hợp lý, người khỏe thì làm việc nặng, người yếu thì làm việc nhẹ. Phải đặc biệt chú ý đến sức lao động phụ nữ. Phụ nữ là đội quân lao động rất đông. Phải giữ gìn sức khỏe cho phụ nữ để chị em tham gia sản xuất được tốt.
Các hợp tác xã phải có những tổ giữ trẻ tốt, bảo đảm cho phụ nữ có con mọn có chỗ gửi con để yên tâm lao động. Một điều Bác nhấn mạnh nữa là phải quý trọng phụ nữ. Bác hỏi Thái Bình còn có người đánh vợ nữa không và ai đánh vợ thì dũng cảm giơ tay lên. Cả hội trường nhìn nhau im lặng, có đồng chí nói rụt rè là chỉ kỳ kèo với vợ chứ không dám đánh.
Bác lại chỉ một đồng chí nữ ngồi gần đó và hỏi có bị chồng đánh không. Chị trả lời:
- Thưa Bác, chồng cháu cũng là cán bộ nên không đánh vợ ạ.
- Có đúng không? Bác nghe nói rằng đánh vợ công khai sợ bị phê bình cho nên có đánh thì chỉ đánh lén thôi. Còn các cô có khi bị chồng đánh nhưng không dám nói. Đánh vợ là tệ rất xấu. Chi bộ Đảng phải giáo dục đảng viên, nhân dân về quyền bình đẳng giữa vợ và chồng. Đoàn thể phụ nữ và thanh niên phải bảo ban nhau cách cư xử hòa thuận trong gia đình. Bác mong rằng: Từ nay về sau sẽ trừ bỏ thói xấu đánh chửi vợ, các cô các chú có làm được không?
Cả hội trường đáp lại “Được ạ” và vỗ tay giòn giã.
Nghe Bác nói về phụ nữ, tôi thấy nghẹn ngào. Chăm lo đời sống chung của nhân dân, Bác quan tâm rất nhiều đến phụ nữ. Bác đã thấu rõ phụ nữ là những người bị áp bức nhiều, bị đau khổ nhiều dưới chế độ cũ. Ngày nay, phụ nữ đã được giải phóng thì phải tẩy rửa cho hết những tàn dư của xã hội phong kiến, thực dân vẫn coi thường, khinh rẻ phụ nữ. Tôi đinh ninh trong lòng phải ghi nhớ lời Bác và phải cùng chị em phấn đấu thực hiện lời dạy bảo của Bác.
Bác ra khỏi hội trường, chúng tôi xúm xít quanh Bác, được chụp ảnh chung với Bác. Bác ra về trên đường làng, dừng chân thăm bà con thôn xóm, âu yếm xoa đầu các cháu nhỏ. Đường làng mỗi lúc một đông, có người đương làm đồng được tin, vội chạy lên đón Bác. Tới đầu xóm Dân Chủ, một toán thiếu niên, nhi đồng tiến lại gần và đồng thanh: Chúng cháu chào Bác ạ!
Bác tươi cười hỏi:
- Các cháu có ngoan không?
- Thưa Bác, có ạ.
- Có chăm học không?
- Thưa, có ạ.
- Có vâng lời bố mẹ không?
- Thưa, có ạ!
- Chìa tay cho Bác xem nào.
Bác gật đầu tỏ ý bằng lòng vì thấy những bàn tay xinh xắn, nhỏ nhắn của các cháu sạch sẽ. Bác gọi một đồng chí lấy kẹo chia cho các cháu.
Bác xoa đầu mấy cháu:
- Các cháu thích bài gì?
- Dạ, bài “Giải phóng miền Nam” ạ.
- Các cháu hát cho Bác nghe.
Bác đưa tay bắt nhịp, các cháu hát vang. Đồng bào đứng xung quanh nhìn Bác, nhìn con em mình, nét mặt vui tươi hớn hở. Có người rưng rưng nước mắt vì sung sướng và cảm động. Bác đi, mọi người lưu luyến tiễn Bác, hàng cây xanh cũng như vẫy chào Bác.
Trích từ sách: Nước non bừng sáng, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội, 1975
Ý nghĩa thiêng liêng của món quà Bác tặng
Sau Cách mạng Tháng Tám, tôi nhận nhiệm vụ làm liên lạc ở huyện. Lúc bất giờ, một chữ tôi cũng không có. Cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ. Chiến sự lan đến quê tôi. Địch đóng 970 đồn bốt lớn nhỏ. Công việc giao thông ở vùng sau lưng địch rất khó khăn và nguy hiểm. Sau sáu năm công tác và học tập, tôi được cử đi dự cuộc liên hoan Anh hùng, Chiến sỹ thi đua toàn quốc lần thứ nhất. Trong Đại hội, số đại biểu phụ nữ chúng tôi chưa nhiều. Bác càng quan tâm đối với những chị em là Anh hùng, Chiến sỹ thi đua. Trong buổi thứ ba, sau bản báo cáo của anh hùng Nguyễn Quốc Trị và Nguyễn Thị Chiên thì đến lượt tôi. Bước lên bục nói chuyện, chân tôi run run. Tôi quay lại nhìn Bác, Bác nhìn tôi mỉm cười khuyến khích. Tôi cảm thấy Bác nhủ tôi: Cháu cứ nói, nghĩ thế nào nói ra thế ấy. Đây là anh chị em trong một gia đình công nông binh cả mà.
Thế là tôi bình tĩnh lại. Tôi kể lại đời mình, mạnh bạo dần. Mấy trăm con mắt nhìn vào tôi, không làm cho tôi bối rối nữa. Những ánh mắt yêu thương như nhắc nhở tôi ôn nghèo, kể khổ. Tôi lăn lộn nhiều, vất vả nhiều nhưng ít khi thôi nghĩ lại, ôn lại những quãng đời đã qua của mình. Rồi tự nhiên tôi xúc động quá. Tôi thoáng nhớ lại những ngày sống cực nhục trước kia. Nếu không có Bác, không có cách mạng thì cuộc đời tôi vẫn mãi mãi là cuộc đời con cua, con cáy mà thôi. Báo cáo xong, tôi cẩn thận: “Kính thưa Bác, kính thưa các đồng chí trong Đoàn Chủ tịch, kính thưa các Anh hùng, Chiến sỹ thi đua Bắc, Nam, Trung, tôi nói đến đây là hết”. Tôi còn đang bàng hoàng vì những tiếng vỗ tay, thì Bác từ trên ghế Chủ tịch đoàn bước đến gần tôi. Bác cầm tay và nói:
- Cô Chiên là Anh hùng quân đội, Bác tặng khẩu súng lục. Còn cô là chiến sỹ giao thông Bác tặng cái đồng hồ. Cô sẽ dùng nó để đi những đường thư thật đúng hẹn.
Vừa nói, Bác vừa trao đồng hồ tận tay tôi. Là một người trong “đội hỏa tốc”, chuyên chạy những mật thư, những quân lệnh “tuyệt mật” và “thượng khẩn” tôi thường tính giờ theo lối ước lượng, xem sao trên trời, đo bóng cây mặt đất, nghe con chim kêu, con gà gáy, sai chệch thường không ít. Hình như đã có một lần tôi làm liên lạc sai hẹn đến mấy giờ. Rất băn khoăn, tôi ước mong mình có một cái đồng hồ. Mong ước ấy có đã lâu rồi, thế mà giờ đây lại thành sự thật. Tôi khóc vì vui sướng. Tôi là đứa con không cha từ bé. Bác đã làm sống lại tình cha con mà tôi tưởng suốt đời không bao giờ có được nữa. Nhìn Bác, tôi cứ tưởng mình là đứa con gái bé bỏng được người cha nhân từ săn sóc, yêu thương.
Sau Đại hội, một số người được Bác thết cơm. Tôi được ngồi cạnh Bác. Bác hỏi tôi:
- Khi bị địch tra tấn dã man, cô làm thế nào mà chịu được?
- Thưa Bác, cháu trước đây rất khổ. Nay vì Tổ quốc mà chúng đánh đập thì khổ mấy cũng chịu được, đau mấy cũng chịu được.
Bác cười và gắp thêm thức ăn cho vào bát của tôi.
Xong Đại hội, chúng tôi chia tay, mỗi người đi về một ngả. Trước khi đi, người nào cũng quyến luyến. Từ bốn phương trời của đất nước, một ngày về quây quần chung quanh Trung ương Đảng, Chính phủ và Bác, chúng tôi quen nhau, hiểu nhau. Tôi cảm thấy mình hiểu biết nhiều hơn trước. Đất nước mênh mông, Anh hùng ngành nào cũng có. Giữa chúng tôi có một mối liên hệ mật thiết, vừa mới mẻ, vừa quen thuộc mà Bác Hồ là hạt nhân gắn bó tất cả mọi người với nhau.
Lúc bấy giờ, tôi bắt đầu có thói quen xem giờ. Tiếng đồng hồ tích tắc, lắm lúc tôi tưởng đấy là nhịp đập của trái tim mình. Cùng với chiếc đồng hồ, tôi cứ ngỡ là hơi ấm trong bàn tay Bác còn để lại trên tay tôi và mãi mãi đi với tôi trên mọi nẻo đường công tác. Lần đầu tiên dùng đồng hồ, mà lại là đồng hồ của Bác cho, tôi càng thích ngắm ngía. Mặt đồng hồ tròn vành vạnh như mặt trăng rằm. Chữ số và kim giờ, kim phút có bôi chất gì sáng lên trong bóng tối. Mỗi tiếng tích tắc là một tiếng nói của hiện tại. Cái đồng hồ như xác định chỗ đứng của tôi trên con đường hoạt động căng thẳng. Cái đồng hồ cho tôi biết mình là một bộ phận khăng khít của cả guồng máy kháng chiến. Cứ nhìn vào đồng hồ là tôi bồi hồi cảm động nhớ lại lúc được đứng bên Bác. Trong đêm tối mịt mù, những chấm sáng nho nhỏ quý báu làm sao!
Từ ngày có cái đồng hồ, tôi càng biết quý những ngày, những giờ mình đang sống. Tôi cố học thêm chữ trong những lúc nghỉ ngơi. Những lúc mệt mỏi, định dễ dãi với mình một chút, tôi lại nghe tiếng đồng hồ nhắc nhở cố gắng học và làm.
Tích tắc. Tích tắc. Mỗi tiếng tích tắc là một quãng thời gian đi qua. Với tôi, đó cũng là những âm thanh làm cho sáng tỏ thêm, sâu sắc thêm và sinh động thêm kỷ niệm về Bác.
Trích từ sách: Nước non bừng sáng, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội, 1975
Còn nữa
Huyền Trang (tổng hợp)














